Để bảo đảm thanh khoản cũng như quy định tăng trưởng tín dụng phi sản xuất đạt 20% dư nợ cho vay, một mặt các ngân hàng triệt để “thắt” các khoản vay phi sản xuất, mặt khác khẩn trương thu hồi vốn. Từ đây, nợ xấu dần lộ diện. Theo nhiều ngân hàng, không ít doanh nghiệp có các khoản nợ thuộc diện “khó đòi” từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng.
Nợ khó đòi
Không công bố một cách chính thức, song không ít lãnh đạo ngân hàng đều tỏ ra e ngại về các khoản nợ khó đòi. Giám đốc chi nhánh một ngân hàng thương mại cổ phần trên đường Cộng Hòa, quận Tân Bình, TP HCM, cho biết, không chỉ các khoản nợ mới phát sinh, ngay cả nhiều món nợ từ các năm trước, ngân hàng này vẫn chưa thu xong.
Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo ngân hàng cho rằng, nợ xấu phát sinh không xuất phát từ thái độ dây dưa, chây ỳ của khách hàng mà là do hoạt động kinh doanh khó khăn, khiến khách vay khó có khả năng trả nợ. Đặc biệt, với những khách hàng thân thiết, có quan hệ giao dịch hai chiều lâu dài, có khoản vay lớn thì ngân hàng quả thật rất khó xử.
Theo tiết lộ của giới chuyên gia tài chính, đến thời điểm này, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu lên đến 2 – 2,5% tổng dư nợ. Mặc dù gần đây, các ngân hàng ráo riết siết chặt tín dụng và thu hồi vốn bằng nhiều biện pháp, song nhiều ý kiến vẫn e ngại nợ xấu sẽ gia tăng vào cuối năm. Theo tính toán, tổng mức nợ xấu của các ngân hàng hiện không dưới 100.000 tỷ đồng.
Nguy cơ nợ xấu sẽ trở nên rõ ràng hơn vào cuối quý 2, đầu quý 3, khi những nỗ lực để trả lãi vay đã làm kiệt sức các doanh nghiệp. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu cũng đè nặng lên các ngân hàng dưới tác động kép của bức tranh không mấy sáng sủa của nền kinh tế từ nay đến hết năm.
Mạnh được, yếu chết
Nợ xấu hiện phân bố không đều ở các ngân hàng. Và điều này phản ánh năng lực hoạt động của ngân hàng trong việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay và kiểm soát nguồn vốn vay, cũng như hỗ trợ khách hàng. Bởi trong nhiều trường hợp, khi xét duyệt hồ sơ cho vay, các dấu hiệu xấu chưa xuất hiện, chỉ đến tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 6 mới bắt đầu lộ diện. Lúc này, cần thiết phải có sự theo dõi, kiểm soát và hỗ trợ lập tức của ngân hàng cho vay. Muốn vậy, các ngân hàng phải có hệ thống phòng thủ, tức quỹ dự phòng khá chu đáo. Nếu không tuân thủ điều này, thì ngân hàng phải nhận lấy hậu quả. Điều đó là hoàn toàn sòng phẳng trong kinh doanh.
Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, ĐH Ngân hàng TP HCM, nhận định, hiện nợ xấu của các ngân hàng vẫn đang trong tầm kiểm soát (hơn 2,7% GDP). Theo thông lệ, khi tỷ lệ này tăng quá 5% GDP thì sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Tuy nhiên, với mức lãi suất cho vay lên đến 27 – 28% tại nhiều ngân hàng như hiện nay, sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh cũng như trả nợ ngân hàng. Và áp lực đó sẽ dồn về cuối năm. Mặt khác, cho đến nay, tình hình các nền kinh tế lớn chi phối thế giới vẫn bộc lộ nhiều tín hiệu xấu. Do vậy, rất khó để các doanh nghiệp Việt Nam lội ngược dòng, tạo cú đột phá ngoạn mục nào trong kinh doanh để có doanh thu tốt và xoay sở trả nợ. Nợ xấu đe dọa hoạt động ngân hàng là tất yếu.
Tuy nhiên, ông Dương lại không bi quan về vấn đề này, mà cho rằng, bản chất của nền kinh tế giai đoạn này rất khó khăn, cả người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng cũng không ngoại lệ. Nếu như người dân phải bươn chải với gánh nặng cuộc sống khi giá tiêu dùng leo thang, doanh nghiệp phải chật vật cố sức trụ lại thì phía ngân hàng cũng phải chấp nhận tình thế khó khăn chung. Đây là lúc thanh lọc các doanh nghiệp yếu và ngân hàng cũng cần như vậy.
Nợ khó đòi
Không công bố một cách chính thức, song không ít lãnh đạo ngân hàng đều tỏ ra e ngại về các khoản nợ khó đòi. Giám đốc chi nhánh một ngân hàng thương mại cổ phần trên đường Cộng Hòa, quận Tân Bình, TP HCM, cho biết, không chỉ các khoản nợ mới phát sinh, ngay cả nhiều món nợ từ các năm trước, ngân hàng này vẫn chưa thu xong.
Theo các chuyên gia tài chính, cuối quý 2, đầu quý 3, nợ xấu sẽ lộ diện rõ, khi nỗ lực trả nợ làm kiệt sức doanh nghiệp. |
Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo ngân hàng cho rằng, nợ xấu phát sinh không xuất phát từ thái độ dây dưa, chây ỳ của khách hàng mà là do hoạt động kinh doanh khó khăn, khiến khách vay khó có khả năng trả nợ. Đặc biệt, với những khách hàng thân thiết, có quan hệ giao dịch hai chiều lâu dài, có khoản vay lớn thì ngân hàng quả thật rất khó xử.
Theo tiết lộ của giới chuyên gia tài chính, đến thời điểm này, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu lên đến 2 – 2,5% tổng dư nợ. Mặc dù gần đây, các ngân hàng ráo riết siết chặt tín dụng và thu hồi vốn bằng nhiều biện pháp, song nhiều ý kiến vẫn e ngại nợ xấu sẽ gia tăng vào cuối năm. Theo tính toán, tổng mức nợ xấu của các ngân hàng hiện không dưới 100.000 tỷ đồng.
Nguy cơ nợ xấu sẽ trở nên rõ ràng hơn vào cuối quý 2, đầu quý 3, khi những nỗ lực để trả lãi vay đã làm kiệt sức các doanh nghiệp. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu cũng đè nặng lên các ngân hàng dưới tác động kép của bức tranh không mấy sáng sủa của nền kinh tế từ nay đến hết năm.
Mạnh được, yếu chết
Nợ xấu hiện phân bố không đều ở các ngân hàng. Và điều này phản ánh năng lực hoạt động của ngân hàng trong việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay và kiểm soát nguồn vốn vay, cũng như hỗ trợ khách hàng. Bởi trong nhiều trường hợp, khi xét duyệt hồ sơ cho vay, các dấu hiệu xấu chưa xuất hiện, chỉ đến tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 6 mới bắt đầu lộ diện. Lúc này, cần thiết phải có sự theo dõi, kiểm soát và hỗ trợ lập tức của ngân hàng cho vay. Muốn vậy, các ngân hàng phải có hệ thống phòng thủ, tức quỹ dự phòng khá chu đáo. Nếu không tuân thủ điều này, thì ngân hàng phải nhận lấy hậu quả. Điều đó là hoàn toàn sòng phẳng trong kinh doanh.
Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, ĐH Ngân hàng TP HCM, nhận định, hiện nợ xấu của các ngân hàng vẫn đang trong tầm kiểm soát (hơn 2,7% GDP). Theo thông lệ, khi tỷ lệ này tăng quá 5% GDP thì sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Tuy nhiên, với mức lãi suất cho vay lên đến 27 – 28% tại nhiều ngân hàng như hiện nay, sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh cũng như trả nợ ngân hàng. Và áp lực đó sẽ dồn về cuối năm. Mặt khác, cho đến nay, tình hình các nền kinh tế lớn chi phối thế giới vẫn bộc lộ nhiều tín hiệu xấu. Do vậy, rất khó để các doanh nghiệp Việt Nam lội ngược dòng, tạo cú đột phá ngoạn mục nào trong kinh doanh để có doanh thu tốt và xoay sở trả nợ. Nợ xấu đe dọa hoạt động ngân hàng là tất yếu.
Tuy nhiên, ông Dương lại không bi quan về vấn đề này, mà cho rằng, bản chất của nền kinh tế giai đoạn này rất khó khăn, cả người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng cũng không ngoại lệ. Nếu như người dân phải bươn chải với gánh nặng cuộc sống khi giá tiêu dùng leo thang, doanh nghiệp phải chật vật cố sức trụ lại thì phía ngân hàng cũng phải chấp nhận tình thế khó khăn chung. Đây là lúc thanh lọc các doanh nghiệp yếu và ngân hàng cũng cần như vậy.
9 tổ chức tín dụng đã không kịp hoàn thành đưa dư nợ phi sản xuất về dưới 22% trước thời hạn 30.6. Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, 9 ngân hàng này sẽ bị buộc tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hạn chế mở rộng kinh doanh. Như vậy, ít nhất là trong tháng 7 này, số ngân hàng nói trên phải bảo đảm lượng dự trữ bắt buộc 6% đối với tiền gửi VND từ không kỳ hạn đến dưới 12 tháng; kỳ hạn dài hơn là 2%. Riêng với ngoại tệ, các tỷ lệ nói trên lần lượt là 14% và 10%. Quy định dư nợ cho vay phi sản xuất không được vượt 22% vẫn tiếp tục được áp dụng trong tháng 7. Nếu ngân hàng nào rút tỷ lệ nói trên về dưới 22% cho kỳ tháng 8 tới thì sẽ được dở bỏ hình phạt. |
0 nhận xét